Tại góp ý dự thảo Nghị định 24 quản lý thị trường vàng sửa đổi, bổ sung, Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam dự tính nhu cầu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng, vàng trang sức trung bình khoảng 50 tấn/năm, tương đương 5 tỉ USD/năm (khoảng 416 triệu USD/tháng).
DN nhập nguyên liệu vàng, có thể tái tạo ngoại tệ
Theo Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam, dự thảo sửa đổi, bổ sung hiện nay chưa có quy định hoặc điều khoản nào thể hiện nội dung “khuyến khích phát triển thị trường vàng trang sức trong nước để từng bước đưa Việt Nam trở thành trung tâm chế tác, xuất khẩu vàng trang sức chất lượng cao”, theo kết luận của Tổng Bí thư Tô Lâm tại cuộc họp với Ban chính sách, chiến lược -Ban chấp hành TW ngày 28.5.2025. Do đó, Hiệp hội kiến nghị bổ sung rõ các cơ chế, chính sách khuyến khích của nhà nước đối với các DN sản xuất chế tác vàng trang sức.

Nhu cầu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng, vàng trang sức trung bình khoảng 50 tấn/năm
ẢNH: ĐÀO NGỌC THẠCH
Bởi giện nay với năng lực, trình độ của các DN sản xuất, chế tác vàng Việt Nam không những đủ khả năng sản xuất, chế tác vàng trang sức đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn đủ năng lực cạnh tranh xuất khẩu ra thị trường thế giới, và trong giá trị xuất khẩu có tới hơn 25% là giá trị sức lao động. Đây cũng là đặc thù riêng có của mặt hàng vàng. Mặc dù phải sử dụng ngoại tệ để nhập khẩu vàng nguyên liệu nhưng đó là nguyên liệu đầu vào của sản xuất mà sau khi các DN sản xuất, chế tác thành vàng trang sức thì không những xuất khẩu tái tạo lại được nguồn ngoại tệ (kể cả xuất khẩu tại chỗ góp phần phát triển ngành du lịch Việt Nam) mà còn góp phần tăng được dự trữ ngoại hối cho đất nước. Đây cũng để giải đáp băn khoăn là liệu khi cho nhập khẩu vàng nguyên liệu có làm ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối không?
“Nhập vàng nguyên liệu để sản xuất khác hoàn toàn so với nhập khẩu hàng tiêu dùng như mỹ phẩm, thuốc lá, rượu thì chỉ tiêu tốn ngoại tệ. Năm 2024, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng SJC gần 13,5 tấn can thiệp thị trường (tương đương 1,4 tỉ USD), số ngoại tệ này chiếm tỷ trọng quá nhỏ, chỉ bằng 0,3% so với kim ngạch nhập khẩu của cả nước năm 2024 là 380,76 tỉ USD và chỉ bằng 5,7% so với giá trị nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng là 24,33 tỉ USD”, công văn của Hiệp hội đề cập.
Theo dự tính của Hiệp hội, nhu cầu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng, vàng trang sức trung bình khoảng 50 tấn/năm, tương đương khoảng 5 tỉ USD/năm ( khoảng 416 triệu USD/tháng). Sau khi đưa vào sản xuất, chế tác ½ để đáp ứng nhu cầu trong nước, ½ để xuất khẩu, tức 25 tấn để xuất khẩu vàng trang sức có thể thu về từ 3,5 đến 4 tỉ USD. Như vậy khi DN nhập vàng nguyên liệu về để sản xuất, chế tác không những đáp ứng cho nhu cầu của thị trường trong nước mà còn xuất khẩu tái tạo lại được nguồn ngoại tệ cho đất nước.
Chưa kể nhu cầu mua ngoại tệ để nhập vàng nguyên liệu khoảng 5 tỉ USD/năm, tức bình quân khoảng 416 triệu USD/tháng là quá nhỏ bé so với doanh số mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng khoảng 900 triệu đến 1,2 tỉ USD/ngày, tức khoảng 18,9 tỉ đến 25,2 tỉ USD/tháng. Vì vậy, nhu cầu mua trung bình 416 triệu USD/tháng để nhập vàng nguyên liệu là nằm trong khả năng đáp ứng của các ngân hàng thương mại, không ảnh hưởng đến cung cầu thị trường ngoại tệ, do đó không phải sử dụng dự trữ ngoại hối để can thiệp thị trường ngoại tệ.
Không nên tạo ra trung gian nhập khẩu vàng
Về quy định DN sản xuất vàng trang sức phải mua vàng nguyên liệu từ đầu mối nhập khẩu là tổ chức tín dụng, Hiệp hội đề nghị bỏ quy định này để tránh tạo ra tầng nấc trung gian, gây bất lợi cho các DN sản xuất vàng trang sức, làm méo mó thị trường và làm cho giá đầu vào sản xuất tăng nên giá thành sản phẩm vàng trang sức cũng tăng theo, cuối cùng người dân chịu thiệt; đồng thời làm tăng giá thành xuất khẩu.
Đồng thời với quy định “Doanh nghiệp chỉ được phép nhập khẩu vàng miếng, vàng nguyên liệu của nhà sản xuất vàng được chứng nhận bởi Hiệp hội thị trường vàng London (LBMA)”, Hiệp hội cho rằng nếu hạn chế cả nơi mua (thị trường cung cấp) là không có cơ sở pháp lý, vi phạm quyền tự do kinh doanh của DN. Việc lựa chọn nhà cung cấp, thị trường cung cấp nguyên liệu là quyền của DN. Việc bó hẹp thị trường, nhà cung cấp dẫn tới DN có thể phải chịu chi phí, giá cả mua cao. Hạn chế hoạt động nhập khẩu vàng nguyên liệu để phục vụ sản xuất chế tác vàng để phục vụ xuất khẩu.
Ngoài ra, Hiệp hội cũng kiến nghị bỏ quy định về điều kiện sản xuất vàng trang sức và thủ tục, hồ sơ cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động sản xuất vàng trang sức. Bởi, hoạt động sản xuất vàng trang sức không ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Do đó, quy định về điều kiện và cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện đủ điều kiện hoạt động sản xuất vàng trang sức là không có cơ sở và không phù hợp với thực tế. Quy định này đã kìm hãm hoạt động sản xuất vàng trang sức trong nền kinh tế; dẫn tới hạn chế khả năng xuất khẩu vàng trang sức, trái với chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư và trái với nội dung Nghị quyết 68 của Bộ chính trị về phát triển kinh tế tư nhân tại mục III.2 “đổi mới tư duy xây dựng và thực thi pháp luật… sử dụng các công cụ thị trường để điều tiết nền kinh tế; giảm thiểu sự can thiệp và xóa bỏ các rào cản hành chính , cơ chế xin – cho…”. Sau 12 năm, thị trường vàng trang sức đã được được sàng lọc, tổ chức, sắp xếp lại, thị trường vàng trang sức mỹ nghệ không ảnh hưởng đến công tác điều hành chính sách tiền tệ. NHNN đã cấp trên 6.000 giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động sản xuất vàng trang sức nhưng không có ý nghĩa thực tế, không cần thiết.
📌 Bài viết này được đóng góp bởi người dùng và bản quyền thuộc về người dùng đã xây dựng bài viết. Bản quyền thuộc về tác giả gốc và chỉ dùng cho mục đích học tập và giao tiếp. Nếu có bất kỳ vi phạm nào, vui lòng liên hệ với chúng tôi để xóa nó.