Tiền ra mạnh, làm sao ngăn lạm phát?

Tăng trưởng tín dụng dự kiến có thể vượt mức 16% mà Ngân hàng Nhà nước đưa ra vào đầu năm, điều này có thể gây áp lực lớn lên lạm phát.

Tăng tín dụng phục vụ tăng trưởng kinh tế

Cuối tháng 7 qua, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thông báo điều chỉnh tăng thêm chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2025 đối với các NH.

Dù nhà điều hành chưa có động thái điều chỉnh mức tăng chung, nhưng việc chủ động cấp thêm hạn mức tăng trưởng tín dụng cho các nhà băng đồng nghĩa với lượng tiền chảy vào nền kinh tế có thể gia tăng. Theo kế hoạch, chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm này là 16% dựa trên mục tiêu tăng trưởng kinh tế cả nước là trên 8%. Đến hết tháng 7, tín dụng toàn hệ thống đã tăng gần 10% so với cuối năm 2024. Mới nhất tại Hội nghị trực tuyến Chính phủ với các địa phương về kịch bản tăng trưởng kinh tế năm 2025, Thủ tướng Phạm Minh Chính chỉ đạo cần đạt mức tăng trưởng năm nay khoảng 8,3 – 8,5% để tạo đà, tạo lực, tạo nền tảng vững chắc để đạt tăng trưởng 2 con số trong giai đoạn 2026 – 2030, qua đó đạt 2 mục tiêu chiến lược phát triển 100 năm.

Tiền ra mạnh, làm sao ngăn lạm phát?- Ảnh 1.

Ngân hàng Nhà nước cần giám sát dòng vốn đảm bảo tỷ lệ lớn đi vào khu vực sản xuất kinh doanh

ẢNH: NGỌC THẮNG

Để đạt được mức tăng trưởng GDP như mục tiêu vừa nêu thì tăng trưởng tín dụng sẽ phải lên 17 – 18%. Công ty cổ phần chứng khoán MB dự báo tăng trưởng tín dụng sẽ đạt khoảng 17 – 18% đến cuối năm 2025. Hoạt động cho vay nửa cuối năm 2025 nhiều khả năng sẽ được thúc đẩy bởi 3 yếu tố chính: Việc đẩy mạnh giải ngân đầu tư công; Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị nâng cao vai trò và vị thế của khu vực kinh tế tư nhân và tháo gỡ hiệu quả các nút thắt pháp lý của các dự án bất động sản; hướng tới bỏ “room tín dụng”.

Tiền chảy ra, không chỉ áp lực lên lạm phát mà còn nỗi lo tín dụng NH chảy vào đầu cơ tài chính, đất đai. Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 7 vừa diễn ra, trước lo ngại tín dụng đang “chảy” mạnh vào bất động sản và chứng khoán, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng thừa nhận tốc độ tăng tín dụng vào hai lĩnh vực này đúng là cao hơn mức bình quân chung, song điều đó phù hợp với định hướng tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản. Khi dự án được gỡ vướng về pháp lý, nhu cầu vốn để triển khai là tất yếu.

Với lĩnh vực chứng khoán, mặc dù có tốc độ tăng nhưng tỷ trọng chỉ chiếm 1,5% tổng dư nợ, không gây rủi ro hệ thống. NHNN khẳng định vẫn luôn theo dõi sát các chỉ số an toàn. Tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung – dài hạn hiện vẫn dưới ngưỡng 30%. Đồng thời, liên tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng cân đối vốn theo kỳ hạn, đảm bảo an toàn hệ thống…

Chỉ khi nào các khu vực sản xuất, tiêu dùng phát triển cân đối thì kinh tế tăng trưởng mà không tạo ra lạm phát cao. Nếu không kiểm soát được dòng vốn tập trung vào ngành nghề sản xuất, lĩnh vực được khuyến khích phát triển, thì phải giảm mức tăng trưởng tín dụng.

Chuyên gia tài chính Đinh Tuấn Minh

TS Nguyễn Đức Độ (Học viện Tài chính, Bộ Tài chính) cũng đồng quan điểm: Thời gian qua dòng vốn đã chảy đều vào nhiều ngành nghề, giúp các lĩnh vực hoạt động tốt. Chẳng hạn tín dụng chảy vào thị trường bất động sản cũng có tác động tích cực giúp thị trường giao dịch sôi động, nhiều dự án được hoàn thành. Trong ngắn hạn tác động đến lạm phát sẽ chưa cao, nhưng TS Nguyễn Đức Độ cũng lưu ý phải theo dõi chặt và giám sát việc cung ứng vốn cho nền kinh tế. Về lâu dài phải thận trọng và kiểm soát tăng trưởng tín dụng phù hợp.

Kiểm soát dòng vốn, giá hàng hóa thiết yếu

TS Đỗ Thiên Anh Tuấn, Trường Chính sách công và quản lý Fulbright, phân tích với tốc độ tăng trưởng tín dụng từ đầu năm đến nay thì xác suất cao cả năm có thể chạm mức 20%, đây là một mức khá cao so với các năm vừa qua. Và tất yếu sẽ gây ra sức ép rất lớn lên giá cả hàng hóa và lạm phát. Thông thường, chính sách tiền tệ có độ trễ từ 6 – 9 tháng nên áp lực này sẽ hiện rõ trong năm 2026. Vì thế theo ông Anh Tuấn, vấn đề quan trọng nhất hiện nay là NHNN phải kiểm soát, giám sát dòng tiền đi vào khu vực sản xuất kinh doanh, tạo ra hàng hóa và giá trị gia tăng để đối ứng với lượng tiền cung ứng ra nền kinh tế. Việc giám sát đó nhằm đảm bảo tỷ trọng lớn dòng vốn đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh mà không chảy vào lĩnh vực mang tính đầu cơ và gây ra bong bóng tài sản.

Để làm được điều đó thì NHNN phải đưa ra một số công cụ kỹ thuật như giới hạn tỷ lệ đảm bảo an toàn cho vay để giảm tỷ trọng cho vay nhiều ở các lĩnh vực phi sản xuất, mang tính rủi ro cao. Ở góc độ chính sách tài khóa thì không có giải pháp nào phù hợp vì đều phải phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8%. Vì vậy, chỉ còn giải pháp chính sách cơ cấu. Đó là Chính phủ phải tập trung vào việc cơ cấu từ thể chế đến môi trường kinh doanh, giảm các chi phí về lao động, chi phí kinh doanh, logistics. Đặc biệt, cần kiểm soát giá cả các hàng hóa thiết yếu như điện, nước, y tế, giáo dục… Từ đó mới có thể góp phần hạn chế giảm sức ép lên lạm phát khi tăng trưởng tín dụng ở mức cao.

Đồng tình, chuyên gia tài chính Đinh Tuấn Minh cho rằng nếu tăng trưởng tín dụng để đáp ứng nhu cầu cho các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu, đầu tư sản xuất thì sẽ không ảnh hưởng nhiều đến lạm phát. Thế nhưng trên thực tế trước đây đã có câu chuyện dòng vốn cung ứng từ hệ thống NH lại chảy nhiều vào các lĩnh vực đầu tư, hay doanh nghiệp đi vay nhưng rót nhiều vào bất động sản, chứng khoán. Vì vậy sẽ không loại trừ sẽ có một phần dòng vốn hiện nay chảy vào những lĩnh vực phi sản xuất, từ đó có khả năng gây ra bong bóng tài sản. Khi tín dụng tăng cao mà hàng hóa, dịch vụ tăng không kịp thì sẽ khiến giá hàng hóa gia tăng, tạo ra lạm phát cao.

Chuyên gia Đinh Tuấn Minh nhấn mạnh: Chỉ có giải pháp hữu hiệu nhất là làm thế nào duy trì được dòng vốn tập trung vào khu vực sản xuất kinh doanh. Đây là trách nhiệm của NHNN và các ngân hàng thương mại.

“Chỉ khi nào các khu vực sản xuất, tiêu dùng phát triển cân đối thì kinh tế tăng trưởng mà không tạo ra lạm phát cao. Nếu không kiểm soát được dòng vốn tập trung vào ngành nghề sản xuất, lĩnh vực được khuyến khích phát triển, thì phải giảm mức tăng trưởng tín dụng. Bởi điều này cũng như nếu sợ nước tràn bờ ruộng thì phải giảm lượng nước bơm vào, chứ không có giải pháp nào hiệu quả hơn”, ông Đinh Tuấn Minh chia sẻ.

NHNN vừa ban hành Thông tư số 23/2025 sửa đổi, bổ sung các quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng. Đáng chú ý, NHNN bổ sung trường hợp được giảm 50% tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tổ chức tín dụng nhận chuyển giao NH thương mại được kiểm soát đặc biệt theo quy định. Bên cạnh đó, tổ chức tín dụng hỗ trợ quy định tại khoản 39 điều 4 luật Các tổ chức tín dụng cũng được giảm 50% tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo phương án phục hồi tổ chức được kiểm soát đặc biệt đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Thông tư này có hiệu lực từ ngày 1.10. Như vậy các NH được giảm 50% tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ có thêm nguồn vốn để đẩy mạnh cho vay cũng như dư địa để giảm lãi suất.

📌 Bài viết này được đóng góp bởi người dùng và bản quyền thuộc về người dùng đã xây dựng bài viết. Bản quyền thuộc về tác giả gốc và chỉ dùng cho mục đích học tập và giao tiếp. Nếu có bất kỳ vi phạm nào, vui lòng liên hệ với chúng tôi để xóa nó.