Tinh hoa võ học xứ Huế: Võ kinh thời Nguyễn

Truyền thống võ học Việt Nam hình thành qua hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Tinh hoa võ Việt thâm sâu, còn rất nhiều giá trị về võ học và nhất là nhiều nhân vật đặc biệt vẫn chưa được người đương thời tiếp cận đầy đủ. Chỉ riêng vùng đất cố đô Huế, võ Việt đã và đang được truyền thừa, tiếp nối sinh động…

Thời nhà Nguyễn, võ học được chuẩn hóa thành sách, đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Tư liệu lịch sử ghi chép nền võ thuật Việt Nam có từ thời dựng nước và phát triển cùng với công cuộc vệ quốc. Võ học có vai trò rất lớn trong việc “cứu khổn phò nguy”, bênh vực kẻ yếu, chống lại cái ác, đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, đến năm 1721, vua Lê Dụ Tông (1679 – 1731) mới cho mở trường võ và đưa võ học vào khuôn khổ tập luyện chính quy.

 - Ảnh 1.

Môn sinh Võ kinh Vạn An phái ở Huế biểu diễn tại Ngọ Môn trong Ngày hội tinh hoa võ Việt vào tháng 3.2025

ẢNH: ANH THƯ

Triều Nguyễn tôn vinh võ học

Đến thời nhà Nguyễn, vua Gia Long sau khi lên ngôi ở Phú Xuân (năm 1802) rất coi trọng việc trọng dụng người tài, đề cao võ học. Các võ tướng Tôn Thất Hội, Nguyễn Văn Trương, Lê Văn Duyệt… từng giúp vua đánh đông dẹp bắc đều có những chức vụ cao trong triều đình.

Tiếp nối vua cha, vua Minh Mạng cho xây dựng Võ miếu (còn có tên Võ Thánh miếu) vào tháng 11.1835 tại làng An Ninh Thượng (nay là thôn An Bình, P.Hương Hồ, TP.Huế) sát bên Văn Thánh miếu để thờ các bậc danh tướng Việt Nam và danh tướng triều Nguyễn lập nhiều chiến công.

 - Ảnh 2.

Các môn sinh của Võ kinh Vạn An phái dâng hương tại Võ Thánh miếu trong ngày hội Tinh hoa võ Việt

ẢNH: ANH THƯ

Sách Đại Nam thực lục ghi chép về việc xây dựng Võ miếu, rằng vua Minh Mạng đã chỉ dụ: “Điều cốt yếu của trị nước là cả văn lẫn võ, không thể ruồng bỏ bên nào. Đặt ra Võ miếu là việc nên làm… Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê… đời nào cũng có người tài giỏi binh cơ mưu lược… Huống chi bản triều từ ngày khai quốc đến trung hưng, công liệt rực rỡ, không kém người xưa, đáng biểu dương để khuyến khích nhân tài”.

Năm 1837, khoa thi Hương võ và Hội võ lần đầu tiên được tổ chức. Triều đình quy định lấy các năm Dần, Thân, Tỵ, Hợi mở khoa thi Hương võ; các năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu mở khoa thi Hội võ.

Võ kinh là gì ?

Nền võ học Việt đến thời nhà Nguyễn được chuẩn hóa thành sách, đưa vào giảng dạy trong nhà trường nên được gọi là Võ kinh.

Trong khoa thi Hương võ, triều đình quy định người nào 3 kỳ đầu trúng là cử nhân võ, dự trúng 2 kỳ là tú tài võ. Đối với cử nhân võ thì ngày xướng danh, phúc hạch, hỏi từ 3 – 4 câu ở sách Võ kinh, Tứ thư, Ngũ kinh. Ai thông suốt Võ kinh và cả Tứ thư, lý số thì được xếp hạng đầu bảng. Các cuộc thi Hương võ thường được triều đình tổ chức tại các trường thi ở Thừa Thiên, Bình Định, Hà Nội, Thanh Hóa. Người nào đậu cử nhân, tú tài trong các kỳ thi này sẽ được tham gia kỳ thi hội để chọn tiến sĩ, phó bảng.

 - Ảnh 3.

Nhà bia các võ tướng Việt Nam được triều Nguyễn vinh danh tại Văn Thánh miếu

ẢNH: ANH THƯ

Theo Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, trong kỳ thi Hội võ, các võ sinh phải trải qua 3 nội dung thi, người nào thi trúng cả ba lại kiêm thông chữ thì cho vào thi tại cung điện nhà vua. Tại đây, võ sinh nào có điểm số cao về binh pháp, văn lý sẽ đỗ tiến sĩ võ. Những võ sinh không được vào thi tại cung điện nhà vua liệt làm phó bảng võ. Sau đó, các võ sinh thi đỗ sẽ được triều đình vinh danh, bổ nhiệm vào các chức quan võ.

Trường thi là khoảng đất rộng trong đài Trấn Bình, xung quanh võ trường đều bưng kín bằng phên nứa, 4 góc có điếm canh, đều cắm cờ, ngoài cùng cắm chông tre. Bên trong chia làm 4 khu vực chính gọi là vi (vòng thi đấu) theo thứ tự: trí, dũng, tài, lực. Trước mỗi vi có một chòi cao 7 thước 2 tấc, có đặt súng bắn, cạnh chòi có bao lan để trông coi, bên dưới dựng nhà tranh cho võ sinh ở.

Võ sư Đoàn Phú, Chưởng môn phái Võ ta – hổ quyền đạo, cho biết từ các ghi chép của sử sách cho thấy Võ kinh là võ học đã được nhà Nguyễn hệ thống chuẩn hóa thành giáo khoa phổ biến trên toàn quốc. Người học võ, bất cứ môn phái nào khi đi thi võ đều sử dụng các bài Võ kinh để thi tài và các bài võ được chuẩn hóa đó trong dân gian gọi chung là võ ta (tức võ của người Việt).

 - Ảnh 4.

Các môn sinh Võ kinh Vạn An phái trình diễn song đấu côn kiếm trong ngày hội Tinh hoa võ Việt

ẢNH: ANH THƯ

Cụ thể, về hệ thống quyền thuật gồm các bài quyền từ thấp đến cao từ thần đồng, ngọc trản, phụng hoàng, lão mai… Về sử dụng binh khí có thập bát ban võ nghệ, gồm 18 loại binh khí sử dụng trong chiến đấu, đánh giặc như: đao, thương, kiếm, côn (đùi), cung, xà mâu, thiết lĩnh, phủ (búa), chùy… Mỗi loại còn chia theo dài ngắn, tính chất, hình dáng mà có thêm tên gọi khác nhau.

“Các môn phái võ học VN, dù bất cứ nguồn gốc xuất xứ truyền thừa khác nhau, đều phải dùng căn bản Võ kinh để tập luyện cho mục đích thi cử. Vì vậy, tuy mỗi môn phái có sắc thái khác nhau nhưng vẫn có chuẩn chung trong bài bản, tập luyện của võ ta, tức Võ kinh Việt Nam”, võ sư Trương Quang Ngọc, Chưởng môn Thiếu lâm Vạn An (Huế), nói.

“Việc gọi tên Võ kinh là võ ta vừa mang niềm tự hào dân tộc, vừa hàm nghĩa xác định đây là môn võ của người Việt, do người Việt sáng tạo, lưu truyền và được chuẩn hóa thành hệ thống bài bản phổ biến trên toàn quốc”, võ sư Đoàn Phú cho hay. (còn tiếp)

Tinh hoa võ học xứ Huế: Võ kinh thời Nguyễn - Ảnh 1.

Tinh hoa võ học xứ Huế: Võ kinh thời Nguyễn - Ảnh 2.

Tinh hoa võ học xứ Huế: Võ kinh thời Nguyễn - Ảnh 3.

Tinh hoa võ học xứ Huế: Võ kinh thời Nguyễn - Ảnh 4.

Các môn sinh của Võ kinh Vạn An Phái dâng hương tại Võ miếu triều Nguyễn ở Huế

ẢNH: ANH THƯ


📌 Bài viết này được đóng góp bởi người dùng và bản quyền thuộc về người dùng đã xây dựng bài viết. Bản quyền thuộc về tác giả gốc và chỉ dùng cho mục đích học tập và giao tiếp. Nếu có bất kỳ vi phạm nào, vui lòng liên hệ với chúng tôi để xóa nó.